Thứ Tư, 13 tháng 9, 2017

Chữ Viết Giản Thể Tiếng Trung Quốc Phản Ảnh Thực Trạng Xã Hội Trung Quốc Như Thế Nào

Nửa cuối năm 1950, Đảng cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã cách tân chữ Hán phồn thể tiếng Trung Quốc thành chữ giản thể tiếng Trung Quốc trên quy mô lớn. Chính vì vậy, các người sinh ra từ sau thập niên 60 đã không thể đọc hiểu được các thư tịch cổ, và tạo ra sự đứt gãy văn hóa truyền thống. Nền văn hóa Trung Quốc mấy nghìn năm đã bị mai một, thay vào chậm tiến độ là sự phổ thông phổ biến của văn hóa ĐCSTQ.

Chữ giản thể tiếng Trung Quốc bỏ bộ "tâm" (màu đỏ) ra khỏi chữ Yêu, tức là Yêu không sở hữu trái tim?

Mỗi chữ Hán cổ là nhân thể sinh mệnh hoàn chỉnh, chậm triển khai là sự kết tinh của các bối cảnh văn hóa, thời kỳ phát triển lịch sử và kinh nghiệm phường hội trong suốt chặng con đường trưởng thành của một dân tộc. Bước vào toàn cầu chữ Hán, ta sẽ chứng kiến được những kiến thức chưng đại tinh thâm giống như một viện bảo tồn lịch sử. ngoài ra, chữ giản thể tiếng Trung Quốc thì chỉ giống như một kí hiệu, nhìn thì với vẻ thuận tiện nhanh chóng, nhưng, bản chất lại là 1 thứ tàn khuyết bất toàn, giản mà không tinh. Đã vậy còn phá hoại luôn nội hàm của 1 hệ thống văn tự.

cùng có việc giản hóa chữ Hán, văn hóa truyền thống bị bỏ rơi, đạo đức suy thoái, phường hội hỗn loạn, con người thiển cận. ngày nay, tại Trung Quốc chữ giản thể được tiêu dùng nhiều, và cũng là thứ ký hiệu diễn đạt rõ nhất khuân mặt thị trấn hội Trung Quốc đương thời.

tỉ dụ, chữ Thân 親 tức thân thích, thân hữu. Gồm bộ tân 辛 bên trái, và chữ kiến 見 bên phải, hàm nghĩa của bộ tân tức là vị cay, biểu tượng cho sự gian khổ, kiến tức là gặp mặt, nhìn thấy nhau; cho dù trong khi cạnh tranh nhất, các người nhà vẫn sở hữu thể luôn ở bên cạnh và tương trợ lẫn nhau, vẫn luôn thăm viếng và giữ được tình cảm khăng khít. Chữ giản thể tiếng Trung Quốc đã bỏ mất đi chữ kiến chỉ còn lại bộ tân, anh em, vợ chồng,cha con vì bước các con phố mưu sinh gian khổ đã ko còn nhìn mặt nhau nữa.

Hương 郷「hương 」thay đổi thành乡 mất đi「lang」「郎」 (đàn ông , chồng). Ở nông thôn Trung Quốc hiện tại những tuổi teen rời xa nhà, đi tới các tỉnh thành khiến cho việc, chỉ còn lại những đứa trẻ và người già.

Ái「愛」ý tức thị ái tình, gồm bộ tâm 心 (con tim) và chữ thụ 受 (chịu đựng), ái tình thương chính là sự chấp nhận và tình nguyện hi sinh. Chữ giản thể tiếng Trung Quốc đổi thành 爱, mất đi chữ tâm (trái tim). trở nên tình cảm (tình yêu) nông cạn bên ngoài ko có con tim.

Tiến 進 (tiến lên) gồm bộ sước 辶 (bước chân) và chữ giai 佳 (tốt đẹp), thay đổi thành 进, Chữgiai đổi thay thành bộ tỉnh「井」(cái giếng), tức " bước chân đi vào giếng" cũng chính là tự hủy diệt mình.

Thính「聴」(nghe) gồm bộ nhĩ 耳 bên trái, chỉ mẫu tai; bên phải là chữ thập 十 (số mười) phiếm chỉ số phổ quát, chữ mục目 (con mắt) và rốt cục là tâm 心 (con tim), người ta phải nghe bằng tai, nhìn nhận rộng rãi lần bằng mắt và suy xét bằng nội tâm. Chữ giản thể tiếng Trung Quốc đã đổi lại thành 听 gồm chữkhẩu 口 (cái miệng) và cân 斤 (cái rìu). Người ta ko nghe bằng lỗ tai, ko nhìn nhận bằng mắt và suy xét bằng trái tim; họ chỉ biết tiêu dùng miệng để tranh biện và tiêu dùng vũ khí để khắc phục tranh chấp.

Sỉ 恥 (liêm sỉ, xấu hổ) gồm bộ nhĩ 耳 (tai) và chữ tâm 心 (con tim). Người ta phải hướng nội, lắng tai tiếng nói của lương tri, liêm sỉ bên trong mình để biết hổ hang khi làm việc xấu xa. Chữ giản thể tiếng Trung Quốc lại thay đổi thành 耻 gồm bộ nhĩ 耳 (tai) và chữ 止 (dừng lại), người ta chỉ biết nghe rồi để ngừng thi côngĐây, chứ không tự suy xét chính lương tâm của mình.

Mãi 買 tức mua bán, gồm 2 bộ khẩu 口 ở phía trên biểu hiện sự đàm phán, mặc cả giữa bên tìm và bán; còn bộ bối (vỏ sò) ở phía dưới biểu trưng cho tiền tệ (người xưa dùng vỏ sò như một dạng tiền tệ) thay đổi thành 「买」gồm nửa bộ mịch 冖 ở trên (có tức thị trùm kín, bịt) ở dưới là bộ đầu 头 (cái đầu), về bản tính việc tìm bán là phải dùng tiền bạc nhưng ở đây lại giống như sự che đậy, bịt mồm và cướp giật tài sản.

Ưu 優 với ý nghĩa ưu tú, gồm bộ nhân 人 bên trái chỉ người và chữ ưu 憂 ở bên phải với ý nghĩa tư lự, người xuất chúng ưu tú phải biết lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau dòng vui của trần gian. Chữ này đã đồi thành 优. Chữ ưu sở hữu nghĩa ưu tư đã bị đổi thành chữ vưu 尤 tức sự kỳ lạ, dị kì, nổi bật; người thời nay mang tí đỉnh tuấn kiệt liền huênh hoang diễn đạt để thỏa mãn bắt mắt của mình chứ ko còn chú ý đến việc phụng sự đất nước, dân tộc.

Đạo導 có ý tức là dẫn tuyến phố, bên trên là chữ đạo 道 tức là đường to, hàm nghĩa này còn chỉ đạo lý của vũ trụ và nhân sinh, bên dưới là chữ thốn 寸 (độ dài bằng chiều rộng của hai ngón tay chập lại) 1 trong các tổ chức đo độ dài nhỏ nhất của người Trung Quốc cổ. Người dẫn tuyến đường phải thông thuộc đạo lý, trên mỗi bước chân từng phải cân nhắc đến đạo lý từng chút một, như thế mới không bị lầm lạc. Chữ giản thể tiếng Trung Quốc đổi chữ đạo thành bộ tỵ 巳 ở phía trên, ứng có con rắn trong 12 địa chi, lẽ nào lãnh đạo là phải bước theo vết bò của rắn rết?

Trong chữ Hán tiếng Trung Quốc phồn thể chữ dược 藥 có tức thị thuốc bên trên là bộ thảo có hình dạng 艸…, là tượng trưng cho thảo mộc, cỏ cây, dược liệu mà người xưa dùng đều là cây cỏ. Ở dưới là chữlạc 樂 tức là niềm vui. cơ thể sở hữu bệnh khó chịu khôn cùng, sau lúc tiêu dùng thuốc thì cơ thể phát triển thành thả phanh, thân tâm an lạc. ngừng thi côngĐây là hàm nghĩa của chữ dược 藥. Chữ dược giản thể tiếng Trung Quốc药 vẫn giữ nguyên bộ thảo ở bên trên, nhưng chữ lạc 樂 ở dưới lại bị đổi thành chữ ước 約, tức là ước thúc, trói buộc, gò bó,… hoàn toàn không giống sở hữu ý nghĩa ban đầu.

Chữ giản thể tiếng Trung Quốc vốn cầu sự tinh giảm mà bỏ mất nội hàm, cầu lấy sự chóng vánh ở bề mặt mà bỏ mất chiều sâu trong ý nghĩa, thậm chí tương phản. không những thế cũng với các chữ Hán ko thay đổi, toàn http://tinhhoa.net/ bộ là các chữ có hàm nghĩa xấu. tỉ dụ như ma (ma quỷ) 魔 thì vẫn là 魔, qủy 鬼 thì vẫn là 鬼,phiến 騙(lừa gạt) thì vẫn là騙,tham 貪 thì vẫn là 貪, độc 毒 thì vẫn là 毒,dâm 淫 thì vẫn là 淫,đổ 賭 (cờ bạc) thì vẫn là 賭.

các điều phải chăng đẹp thì cắt mất, những thứ xấu xa giữ còn còn đó. mang thể kể các từ giản thể tiếng Trung Quốc đang biểu lộ tình cảnh phố hội Trung Quốc hiện đại hết sức chính xác.

Từ khóa: tieng Trung Quoc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét